Source: www.gso.gov.vn
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 3/2017 đạt 17.245 triệu USD, cao hơn 945 triệu USD so với số ước tính, trong đó điện thoại và linh kiện cao hơn 392 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 190 triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 79 triệu USD; sắt thép cao hơn 61 triệu USD; gỗ và sản phẩm gỗ cao hơn 43 triệu USD; giày dép cao hơn 42 triệu USD; gạo cao hơn 41 triệu USD; thủy sản cao hơn 33 triệu USD; rau quả cao hơn 30 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư ước tính đạt 16,70 tỷ USD, giảm 3,2% so với tháng trước[1][11], trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,60 tỷ USD, giảm 7,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,10 tỷ USD, giảm 1,4%. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch giảm nhiều so với tháng trước: Hàng dệt may giảm 12%; điện tử, máy tính và linh kiện giảm 20,1%; gỗ và sản phẩm gỗ giảm 11,7%; sắt thép giảm 30,9%; hạt tiêu giảm 16%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tư năm nay tăng 16,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 19,1%. Kim ngạch một số mặt hàng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 42,5%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 34,3%; điện thoại và linh kiện tăng 17,4%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 61,3 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 17,3 tỷ USD, tăng 13,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 44,0 tỷ USD, tăng 16,1%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Hàng dệt may đạt 7,5 tỷ USD, tăng 9,1%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 7,3 tỷ USD, tăng 44,3%; giày, dép đạt 4,2 tỷ USD, tăng 9,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 4 tỷ USD, tăng 38,8%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,4 tỷ USD, tăng 14,4%; thủy sản đạt 2,1 tỷ USD, tăng 9%; cà phê đạt 1,4 tỷ USD, tăng 21,7% (lượng giảm 8,8%); rau quả đạt 1 tỷ USD, tăng 32,1%; dầu thô đạt 933 triệu USD, tăng 34,9% (lượng giảm 6,1%). Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản giảm so với cùng kỳ năm trước: Gạo đạt 823 triệu USD, giảm 8,1% (lượng giảm 8,8%); hạt tiêu đạt 467 triệu USD, giảm 16% (lượng tăng 11,2%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 416 triệu USD, giảm 1,6% (lượng tăng 2%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 4 tháng đầu năm, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 11,9 tỷ USD, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2016; tiếp đến là EU đạt 11,3 tỷ USD, tăng 8,8%; Trung Quốc đạt 8,6 tỷ USD, tăng 45,1%; ASEAN đạt 6,7 tỷ USD, tăng 26%; Nhật Bản đạt 5,2 tỷ USD, tăng 19,3%; Hàn Quốc đạt 4,4 tỷ USD, tăng 32%